1.
ĐẠI CƯƠNG VÀ ĐỊNH NGHĨA
Áp
xe phổi là ổ mủ trong một vùng phổi hoại tử thành hang cấp tính hoặc mạn tính,
nguyên phát hoặc thứ phát do vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng, không bao gồm vi
khuẩn lao.
Viêm
phổi hoại
tử là trường hợp có nhiều ổ áp xe nhỏ có đường kính dưới 2cm ở nhiều thuỳ phổi
khác nhau tạo thành một hay nhiều ổ mủ, khi ổ hoại tử nặng và lan rộng thì gọi
là hoại thư
phổi.
Áp
xe phổi là một bệnh có tính chất nội – ngoại khoa, nếu điều trị nội khoa tích
cực, đúng và đủ phác đồ mà bệnh không khởi thì phải phẫu thuật.
Khi
chưa có kháng sinh khoảng 1/3 bệnh nhân áp xe phối tử vong và 1/3 bệnh nhân
chuyển thành áp xe phổi mạn tính hoặc có biến chứng như tràn mủ màng phổi, giãn
phế quản, ổ nhiễm trùng nung mủ mạn tính v.v… còn lại 1/3 bệnh nhân khởi bệnh
hoàn toàn. Thòi kỳ đầu, mặc dù có kháng sinh nhóm sulfamide, tuy nhiên hiệu quả
điều trị áp xe phổi còn thấp. Cho đến khi Alexander Fleming nghiên cứu và tổng
hợp thành công kháng sinh penicillin đã làm thay đổi tiên lượng của áp xe phổi.
Trước đây phẫu thuật thường được chỉ định đối với bệnh nhân áp xe phổi, tuy
nhiên ngày nay với sự tiến bộ của y học, nhiều kháng sinh đã được nghiên cứu và
đưa vào sử dụng mang lại hiệu quả cao do vậy chỉ định phẫu thuật thu hẹp phạm
vi, chỉ áp dụng trong trường hợp điều trị nội khoa không kết quả hoặc có các
biến
chứng.
Áp
xe phổi được biết đến từ lâu, tuy nhiên phải đến năm 1918, nhờ có phát minh
quang tuyến X bệnh được mô tả rõ ràng hơn. Từ năm 1920, có nhiều tài liệu nói về
áp xe phổi, hội y học Pháp – hội nghị ngoại khoa ở Madrid đã trình bày những kết
quả về điều trị áp xe phổi bằng nội khoa và ngoại khoa. Ngày nay nhờ có nhiều
kháng sinh đặc trị điều trị áp xe phổi chủ yếu bằng nội khoa, chỉ định phẫu
thuật rất ít. Bệnh được chữa khởi hoàn toàn nếu xác định được vi khuẩn gây bệnh
và chọn được kháng sinh thích
hợp.
Ở
Việt Nam, nghiên cứu tại Khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai (1996-2000) áp xe phổi
chiếm 2,5% trong tổng số 3606 bệnh nhân mắc bệnh hô hấp điều trị nội trú tại
khoa (Ngô Quý Châu và CS). Quá trình điều trị gặp nhiều khó khăn do bệnh nhân
đến viện muộn hoặc dùng kháng sinh không thích hợp, một số trường hợp phải điều
trị bằng ngoại
khoa.
Phân
loại áp xe
phổi
–
Dựa vào thời gian diễn biến của bệnh
Áp
xe phổi cấp tính nếu thời gian diễn biến của bệnh dưới 4-6 tuần. Nếu thời gian
diễn biến kéo dài > 6 tuần người ta gọi là áp xe phổi mạn
tính.
–
Dựa vào cơ địa của bệnh nhân
Áp
xe phổi nguyên phát: nguyên
nhân gây áp xe phổi do viêm
phổi hít
phải hoặc áp xe phổi xảy ra ở người hoàn toàn khoẻ
mạnh.
Áp
xe phổi thứ phát: áp
xe phổi xảy ra sau tắc hẹp phế quản do u hoặc dị vật đường thở, ổ áp xe phổi di
bệnh do nhiễm trùng huyết, áp xe phổi ở bệnh nhân giãn phế quản hoặc ở bệnh nhân
suy giảm miễn dịch, bệnh nhân sau ghép
tạng.
–
Dựa vào căn nguyên vi sinh vật
Dựa
vào căn nguyên vi sinh vật gây bệnh, người ta chia ra áp xe phổi do tụ cầu, do
vi khuẩn kỵ khí hoặc áp xe phổi do nấm
Aspergillus.
Trước
đây, nếu không phân lập được vi sinh vật gây bệnh người ta xếp vào nhóm áp xe
phổi không điển hình. Tuy nhiên ngày nay người ta thấy rằng, hầu hết những
trường hợp cấy vi khuẩn âm tính thường là do vi khuẩn kỵ khí gây nên. Biểu hiện
lâm sàng bệnh nhân thường khạc đờm, mủ thối như mùi cóc
chết.
2.
NGUYÊN
NHÂN
2.1.
Viêm nhiễm hoại
tử
– Do
vi khuẩn sinh mủ: Staphylococcus aureus, Klebsiella pneumoniae,
Streptococcus pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa, Escherichia Coli, Proteus
miraculis, Pacteroides sp, Actinomyces, Fusobacterium và những Cocci yếm khí
khác,
Nocardia.
– Nấm: Aspergillus,
Candida
Albicans.
– Ký
sinh trùng: Amíp, sán lá
phổi.
2.2.
Ổ nhồi máu ở
phổi
–
Tắc mạch
phổi.
–
Tắc mạch nhiễm khuẩn (do các vi khuẩn yếm khí, tụ cầu, nấm
Candida).
–
Viêm mạch máu (viêm nút quanh động mạch, bệnh u
hạt).
2.3.
Nguyên nhân
khác
–
Kén phế quản bội
nhiễm.
–
Tổn thương hoại tử trong bệnh bụi
phổi.
2.4.
Yếu tố thuận
lợi
–
Chấn thương lồng ngực có mảnh đạn, dị vật trong
phổi.
–
Sau gây mê đặt nội khí quản, mở khí quản, thở
máy.
–
Sau phẫu thuật vùng tai mũi họng – răng hàm
mặt.
–
Cơ địa mắc một số bệnh mạn tính: đái tháo đường, suy mòn, bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính, giãn phế quản, dùng corticoid và các thuốc ức chế miễn
dịch.
–
Nghiện rượu, nghiện thuốc
lá.
–
Lưu catheter tĩnh mạch trung tâm dài
ngày.
3.
CƠ CHẾ SINH
BỆNH
Phần
lớn áp xe phổi do viêm phổi hít phải các vi khuẩn kỵ khí có trong khoang miệng.
Bệnh thường xảy ra ở những người hôn mê do nghiện rượu, ngộ độc thuốc ngủ, gây
mê toàn thân, tai biến mạch máu não, liệt hầu họng
v.v…
Hậu
quả sẽ gây ra viêm phổi do hít phải vi khuẩn, bệnh tiếp tục tiến triển gây hoại
tử tổ chức nhu mô phổi sau 7-14 ngày và tiến triển thành áp xe phổi. Sau đó ổ áp
xe có thể vỡ vào khoang màng phổi hoặc dẫn lưu theo đường phế
quản.
Hội
chứng Lemierre: nhiễm
trùng vùng hầu họng (viêm mủ, áp xe amiđan) và huyết khối tắc tĩnh mạch cảnh
trong do nhiễm khuẩn. Đây là một trong những nguyên nhân gây áp xe phổi đa ổ do
hoại tử tắc mạch nhiễm
khuẩn.
Ngoài
ra, áp xe phổi còn do nhiễm trùng huyết, viêm nội tâm mạc gây hoại tử phổi do
tắc mạch nhiễm khuẩn. Những trường hợp này bệnh nhân thường có nhiều ổ áp xe cả
hai bên trường
phổi.
Đường
vào: vi khuẩn gây áp xe phổi xâm nhập theo ba con đường sau đây:
3.1.
Đường phế quản (gọi là áp xe phổi do hít
phải)
–
Bệnh nhản hít vào những mảnh tổ chức, máu, mủ có mang theo vi khuẩn trong khi
phẫu thuật ở vùng tai mũi họng, răng hàm
mặt.
–
Hít vào mũi và dịch tiết trong trường hợp có viêm mủ xoang, viêm mủ amiđan, viêm
mủ ở chân
răng.
–
Sặc dị vật: sặc dị vật rắn (hòn bi, xương gà, xương cá…); sặc xăng dầu do hít;
sặc thức ăn và dịch vị dạ dày lúc nôn trong khi hôn mê, nuôi dưỡng qua Ống thông
dạ dày.
Vi
khuẩn theo đường phế quản xâm nhập vào và gây áp xe phổi khi cơ chế bảo vệ đường
hô hấp bị suy yếu, rối loạn phản xạ nuốt, không khạc được đờm, liệt thanh quản,
suy giảm miễn dịch của đường hô
hấp.
Cơ
chế sinh bệnh của áp xe phổi do tắc hẹp phế quản cũng giống như viêm phổi nhưng
nguy cơ tiến triển thành áp xe phổi tuỳ thuộc vào khả năng gây hoại tử phổi của
vi khuẩn: Hemophylus influenza, Klebsiella pneumoniae, vi khuẩn gram âm đường
ruột, tụ cầu vàng…đặc biệt các vi khuẩn yếm khí có khả năng gây hoại tử phổi
nhiều
nhất.
3.2.
Đường
máu
Vi
khuẩn gây áp xe phổi theo đường máu xâm nhập vào phổi. Thường gặp trong trường
hợp nhiễm khuẩn do viêm tắc tĩnh mạch, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn hoặc những ổ
nhiễm khuẩn ở tứ chi, mụn nhọt ngoài
da…
Bên
cạnh ổ nhiễm trùng nguyên phát, áp xe phổi xâm nhập theo đường máu thường có
nhiều ổ áp xe nhỏ, cả hai bên
phổi.
3.3.
Đường kế
cận
–
Áp xe dưới cơ
hoành.
–
Áp xe gan do amip (rất thường gặp), áp xe gan đường
mật.
–
Ổ viêm nhiễm do thủng dạ dày tá tràng bị bịt kín lại, viêm phúc mạc, áp xe ruột
thừa…Vi khuẩn lên phổi gây áp xe do ổ áp xe vỡ lên phổi hoặc vi khuẩn xâm nhập
theo đường bạch
huyết.
–
Viêm mủ trung thất: áp xe thực quản, lỗ rò thực quản hoặc rò thực quản phế quản,
viêm mủ màng phổi, viêm mủ màng ngoài
tim.
Cơ
chế sinh bệnh dù do nguyên nhân nào thì vi khuẩn vào phổi đều qua các giai đoạn
phù nề, viêm nhiễm phế nang, dần dần hoại tử thành mủ ngày càng nhiều làm thành
bọc mủ, khi vỡ ra ngoài để lại hang có hình mức
nước-hơi.
4.
GIẢI PHẪU
BỆNH
–
Vị trí tổn thương: khoảng
3/4 trường hợp ổ áp xe ở thuỳ dưới, phổi phải nhiều hơn phổi trái, 1/4 ở thùy
trên, thùy giữa ít bị hơn, có khi nhiều ổ áp xe nhỏ cả hai
phổi.
–
Đại thể: tuỳ
theo thể áp xe cấp hay thể áp xe gây mủ
thối.
Áp
xe cấp: vùng
tổn thương là một khối đặc, màu hơi vàng, khi cắt ngang thấy mặt trong phủ một
lớp mủ, có phế quản thông ra bên
ngoài.
Áp
xe mủ thối: ổ
áp xe rộng hơn, lan tỏa, cắt ngang mặt cắt màu xám, mật độ không đều, chỗ cứng
chỗ mềm, mủ rất hôi thối kèm theo chảy máu. Có những dải xơ ngăn thành những ổ
áp xe nhỏ, lòng phế quản chứa đầy
mủ.
–
Vi thể:
Thể
áp xe cấp tính: vách
ổ áp xe gồm các lớp mủ, thanh tơ, phế nang viêm mủ, thành áp xe có tổ chức hạt,
viêm nội mạc, có huyết khối mạch máu lân
cận.
Thể
áp xe phổi mạn tính:
thành ổ áp xe có tổ chức xơ dày có khi đến 2 cm, có khi cả thuỳ phổi bị xơ hóa,
phế nang bị viêm mủ chứa nhiều tơ huyết và bạch cầu. Phế quản thành dày và xơ
hóa, lòng phế quản bị hẹp, phế quản gần ổ áp xe bị giãn hình trụ, mạch máu có
viêm nội mạc và huyết khối, màng phổi bên tương ứng cũng bị dày
dính.
5.
TRIỆU
CHỨNG
Áp
xe phổi do nguyên nhân nào cũng diễn biến qua ba giai
đoạn:
5.1.
Giai đoạn
viêm
5.1.1.
Hội chứng nhiễm
trùng
–
Đa số các trường hợp bắt đầu như một viêm phổi nặng, sốt cao 39°-40°C, môi khô,
lưỡi bẩn, hơi thở hôi, đái ít, nước tiểu sẫm
màu.
–
Một số trường hợp khởi phát từ từ giông như hội chứng
cúm.
–
Xét nghiệm máu: bạch cầu tăng cao; tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính tăng; tốc
độ lắng máu tăng; protein c phản ứng (CRP) tăng; procalcitonin
tăng.
5.1.2.
Triệu chứng hô
hấp
–
Ho khạc đờm đặc màu xanh, vàng hoặc trắng đục, có khi ho ra máu lẫn với
đờm.
–
Đau ngực: đau ngực bên bệnh, có khi đau ngực là triệu chứng nổi
bật.
–
Khó thở, tần số thở > 25 chu
kỳ/phút.
–
Khám phổi: hội chứng đông đặc, ran nổ ở vùng phổi tương ứng, có thể có hội chứng
ba giảm.
5.1.3.
X-quang
Chỉ
thấy đám mờ như là viêm phổi: hình tam giác đỉnh quay về phía rốn phổi, đáy quay
ra phía ngoại vi, có thể thấy hình ảnh phế quản hơi.
5.2.
Giai đoạn ộc
mủ
Triệu
chứng ộc mủ là triệu chứng lâm sàng có giá trị chẩn đoán áp xe phổi. Triệu chứng
này có khi xuất hiện sớm 5-6 ngày nhưng có khi xảy ra rất muộn 50-60 ngày sau
khi bệnh khởi phát. Mủ có thể ộc ra nhiều: 300-500ml mủ trong 24 giờ, hoặc mủ
khạc ra ít một nhưng kéo dài. Có trường hợp ổ áp xe lớn vỡ gây sặc mủ tràn ngập
vào hai bên phổi gây suy hô hấp và tử
vong.
Tính
chất của mủ: mủ thối do vi khuẩn yếm khí; mủ màu chocolate do amip, mủ màu vàng
như mật có thể do áp xe đường mật vỡ thông lên phổi, cần cấy mủ để xác định loại
vi khuẩn và làm kháng sinh
đô.
Sau
khi ộc mủ triệu chứng sốt giảm dần, bệnh nhân dễ chịu hơn nhưng vẫn tiếp tục
khạc mủ. Mủ khạc ra nhiều triệu chứng sốt giảm, mủ khạc ra ít nhiệt đỗ vẫn cao,
nếu ộc mủ rồi bệnh nhân vẫn sốt cao thì có thể còn ổ áp xe khác chưa vỡ mủ. Hơi
thở bệnh nhân có mùi thối. Khám phổi có khi chỉ thấy có ran nổ một vùng, hội
chứng đông đặc hoặc hội chứng ba giảm, hội chứng hang chưa rõ
rệt.
5.3.
Giai đoạn thành
hang
Bệnh
nhân vẫn khạc mủ nhưng ít hơn, có khi nhiệt độ đột ngột tăng lên chứng tỏ mủ dẫn
lưu kém bị ứ lại nhiều trong
phổi.
Trong
trường hợp điển hình có thể có hội chứng hang: nghe tiếng thổi hang rõ rệt nhưng
triệu chứng này không cố định có khi chỉ thấy một hội chứng đông đặc hoặc hội
chứng ba giảm do hang ở sâu hoặc còn chứa nhiều
mủ.
X-quang: thấy
hình hang tròn, hoặc bầu dục có mức nước-hơi, cần chụp phim nghiêng để phân biệt
với tràn dịch- tràn khí màng phổi và xác định hang ở phía trước hay phía sau; ở
gần thành ngực hay ở sâu, có thể chọc dẫn lưu được hay không. Có khi hình ảnh
X-quang chỉ là một đám mờ ranh giới không rõ cần chụp cắt lớp vi tính lồng ngực
để xác
định.
6.
TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG
–
Tiến
triển:
Thời
kỳ chưa có kháng sinh, áp xe phổi là một bệnh nặng, bệnh nhân có thể tử vong
trước khi ộc mủ hoặc ngay sau khi ộc mủ. Cũng có trường hợp khởi nhanh sau khi
ộc mủ, nhiều trường hợp bệnh kéo dài hàng năm dẫn tới suy mòn và chết do biến
chứng.
Ngày
nay có rất nhiều loại kháng sinh hiệu quả, áp xe phổi được coi là bệnh lành
tính, chữa khởi hoàn toàn. Tuy nhiên nêu chẩn đoán muộn và điều trị không đúng
thuốc, không đủ liều…, áp xe phối có thể gây nhiều biến
chứng.
– Biến
chứng:
+
Ô áp xe vỡ thông với màng phổi: gây
tràn mủ màng phổi, điều trị lâu khởi (16% trường hợp) có thể gây tràn mủ – tràn
khí màng phổi
nặng.
+
Ổ áp xe vỡ vào trung thất, màng ngoài tim: gây
viêm mủ trung thất, viêm mủ màng ngoài
tim.
+
Ho ra máu nặng: do
vỡ những mạch máu lớn, đặc biệt nếu ổ áp xe ở gần rốn
phổi.
+
Nhiễm khuẩn huyết: vi
khuẩn trong ổ áp xe phổi xâm nhập vào máu gây nhiễm trùng
huyết.
+
Giãn phế quản và xơ phổi.
+
Biến chứng xa: áp
xe não, thận nhiễm
bột.
+
Bội nhiễm lao: không
nên cho thuốc chống lao khi chưa tìm thấy trực khuẩn
lao.
+
Suy mòn, ngón tay dùi trống.
–
Tử vong: bệnh
nhân áp xe phổi tử vong chủ yếu do nhiễm khuẩn huyết, suy hô hấp nặng, suy kiệt,
có trường hợp tử vong ngay sau khi ộc mủ do tắc đường
thở.
–
Ngô Quý Châu và cộng sự, nghiên cứu kết quả điều trị 63 bệnh nhân áp xe phổi tại
Khoa Hô hấp- Bệnh viện Bạch Mai (2009-2010) cho thấy điều trị nội khoa kết hợp
với các biện pháp dẫn lưu mủ đạt tỷ lệ khởi bệnh 95,2%; tỷ lệ phải can thiệp
ngoại khoa 4,8% và không có bệnh nhân nào tử
vong.
8.
THỂ LÂM
SÀNG
Người
ta có thể chia thể lâm sàng theo: vị trí ổ áp xe, nguyên nhân gây bệnh và theo
tiến triển của bệnh. Một số thể lâm sàng thường
gặp:
8.1.
Thể cấp
tính
Bệnh
bắt đầu rầm rộ, triệu chứng ộc mủ xuất hiện sớm vào ngày thứ 5-6, mủ không mùi;
xét nghiệm mủ thường chỉ có một loại vi khuẩn (tụ cầu, liên cầu, phế cầu) tiến
triển nhanh và khỏi hẳn sau khoảng một
tháng.
8.2.
Thể áp xe mủ thối (do vi khuẩn yếm
khí)
Bệnh
khởi phát không rầm rộ, có khi giống như tình trạng cúm. Dần dần bệnh nhân sốt
cao, mặt hốc hác, da xanh tái, gầy nhanh, đái ít, hơi thở hôi-thối, khạc mủ
không nhiều nhưng rất thối, có khi mùi thối lan ra cả phòng. Thể này thường có
nhiêu ổ áp xe nhỏ, sau khi ộc mủ khám không thấy hội chứng hang. Thòi kỳ chưa có
kháng sinh những bệnh nhân mắc thể này thường tử vong rất
nhanh.
8.3.
Thể áp xe phổi do
amip
Do
áp xe gan vỡ lên phổi, thường gặp ở thùy dưới phổi phải nhưng cũng có thể gặp ở
phổi trái do amip theo đường bạch huyết lên phổi gây bệnh. Bệnh nhân có biểu
hiện sốt cao dai dẳng, khạc mủ màu
chocolat.
X-quang:
một phần của bờ cơ hoành cao lên liên tiếp với đám mờ ở phổi, có khi có hình
tròn mờ đậm như một khối u ở phổi, chụp cắt lớp vi tính ngực có thể thấy đường
rò thông từ gan lên
phổi.
Chẩn
đoán được dựa vào tiền sử mắc hội chứng lỵ; tìm thấy amip thể hoạt động trong mủ
(lưu ý giữ bệnh phẩm ở nhiệt độ cơ thể) và phản ứng miên dịch huỳnh quang dương
tính.
Điều
trị đặc hiệu bằng metronidazol hoặc ernetin bệnh khởi rất nhanh chỉ sau vài tuần
nhưng nếu bỏ sót thì bệnh nhân có thể tử
vong.
8.4.
Thể áp xe phối do áp xe đường mật
vỡ
Bệnh
nhân khạc ra mủ màu vàng của mật, vị đắng. Nguyên nhân thường do lỗ rò gan vào
phổi phế quản, điều trị rất lâu khỏi và có khi phải can thiệp phẫu
thuật.
8.5.
Áp xe phổi do tắc mạch nhiễm
khuẩn
Do
viêm nội tâm mạc – viêm tắc tĩnh mạch, nhiễm khuẩn sau đẻ, sau phẫu thuật vùng
hô chậu, lưu catheter tĩnh mạch trung tâm dài ngày, tiêm truyền tĩnh mạch không
đảm bảo vô
khuẩn.
Triệu
chứng: sốt rất cao, khó thở, nhịp thở nhanh, nhịp tim
nhanh.
Xét
nghiệm: bạch cầu tăng, máu lắng tăng, CRP và procalcitonin
tăng.
X-quang:
sau khi khạc mủ thấy những hang nhỏ không có mức nước, hơi, thành hang mỏng,
thường bị cả hai bên phổi. Có khi tràn dịch màng phổi ít. Cấy máu có thể có tụ
cầu vàng.
8.6.
Áp xe phổi ở trẻ
em
Ap
xe cấp tính thường do một loại vi khuẩn, mủ và hơi thở không thối. Chẩn đoán khó
vì trẻ không khạc mủ mà thường nuốt vào rồi nôn ra. Tiên lượng xấu nếu có phế
quản phế
viêm.
8.7.
Áp xe phổi mạn
tính
–
Sau 3 tháng điều trị nội khoa tích cực kết hợp với các phương pháp dẫn lưu và
vật lý trị liệu nếu bệnh không khởi thì gọi là áp xe mạn
tính.
–
Triệu chứng: thỉnh thoảng có một đợt sốt lại, khạc mủ không nhiều, nhưng kéo
dài, có thể ho ra máu, mỗi đợt tiến triển thêm một ổ áp xe mối. Nếu điều trị nội
khoa, bệnh tạm thời thoái lui nhưng rồi xuất hiện những đợt khác, bệnh dai dẳng
kéo dài hàng năm khiến cho bệnh nhân suy mòn, ngón tay dùi trông. Đôi với thể áp
xe phổi mạn tính, phẫu thuật là phương pháp điều trị tốt
nhất.
–
X-quang: có một đám mờ, rất đậm quanh ổ áp xe do phổi đã bị xơ hóa, ổ mủ được
bao bọc bởi tổ chức
xơ.
9.
CHẨN
ĐOÁN
9.1.
Chẩn đoán xác
định
Thể
điển hình, chẩn đoán xác định áp xe phổi dựa
vào:
–
Hội chứng nhiễm
trùng.
–
Triệu chứng ộc
mủ.
–
X-quang: có hình hang có mức nước-hơi (xem hình
trên).
Tuy
nhiên, nếu chờ đến giai đoạn ộc mủ thường là muộn, cần chú ý đến những triệu
chứng ban đầu: mệt mỏi, chán ăn, đau ngực, hơi thở thối, khám phổi có hội chứng
đông đặc hoặc hội chứng ba giảm, hình ảnh X-quang chỉ là một đám mờ, bệnh kéo
dài > 1 tuần thì cần nghĩ đến áp xe
phổi.
9.2.
Chẩn đoán phân
biệt
9.2.1.
Giai đoạn
viêm
Giai
đoạn viêm cần chẩn đoán phân biệt vối viêm phổi: Nếu bệnh nhân có hội chứng đông
đặc và khạc mủ là áp xe phổi. Nếu bệnh nhân có hội chứng đông đặc và hội chứng
nhiễm khuẩn thì thường là viêm
phổi.
Tuy
vậy trên lâm sàng rất khó phân biệt, nếu nghi ngờ áp xe phổi cân cho điều trị
tấn công ngay từ đầu bằng kháng sinh phổ rộng và phối
hợp.
9.2.2.
Giai đoan ộc
mủ:
Cần
chẩn đoán phân biệt
với
–
Ung thư phổi áp xe hoá
+
Bệnh nhân > 45 tuổi, tiền sử nghiện thuốc lá, thuốc
lào.
+
Bên cạnh triệu chứng áp xe phổi, có thể có các triệu chứng: nuốt nghẹn, nói
khàn, móng tay khum, ngón dùi trống, phù áo khoác, đau các
khớp…
+
X quang phổi thấy hang có thành dày, thường lệch tâm, xung quanh có các tua gai,
ít khi có hình ảnh mức nước
hơi.
+
Soi phế quản và sinh thiết có thể giúp chẩn đoán xác
định.
–
Kén phổi, phế quản bội nhiễm
+
Biểu hiện lâm sàng giống áp xe
phổi.
+
X-quang phổi: hình hang thành mỏng < 1 mm và đều nhau, có mức nước hơi. Sau
khi điều trị như một áp xe phổi thì kén vẫn còn tồn
tại.
–
Giãn phế quản hình túi cục bộ
+
Tiền sử ho, khạc đờm hoặc có khi ho ra máu kéo dài nhiều năm, nghe phổi có ran
ẩm, ran nổ tồn tại
lâu.
+
X-quang phổi: có nhiều ổ sáng xen kẽ vùng mờ không đều, chụp cắt lớp vi tính
lồng ngực lốp mỏng, độ phân giải cao giúp chẩn đoán xác
định.
– Lao
phổi có
hang
+
Lao phổi thường tiến triển từ từ vối toàn trạng gầy sút suy sụp, sốt về chiều,
ho khạc đờm, hoặc ho
máu.
+
Có tiếp xúc với người mắc
lao.
+
Xét nghiệm tìm vi khuẩn lao (nhuộm soi tìm AFB, PCR-MTB, nuôi
cấy).
+
Phản ứng Mantoux với tuberculin dương
tính.
+
Máu lắng
tăng.
+
X-quang phổi: trên nền tổn thương thâm nhiễm hoặc xơ hoá có một hoặc nhiều hang,
thường khu trú ở đỉnh
phổi.
–
Áp xe thực quản
Nguyên
nhân thường do hóc xương, nhất là hóc xương bị lãng quên. Áp xe thực quản có thể
gây lỗ rò với khí quản hoặc phế quản. Chẩn đoán dựa vào hỏi kỹ tiền sử hóc xương
và chụp thực quản cản quang bằng lipiodol (không dùng baryt vì nếu baryt lọt vào
phổi qua lỗ rò sẽ gây áp xe
phổi).
–
Rò màng phổi phế quản
Tràn
mủ màng phổi gây lỗ rò với phế quản, bệnh nhân cũng khạc mủ. Cần chọc dò màng
phổi để chẩn đoán, có thể bơm vài ml xanh methvlen vào khoang màng phổi sẽ thấy
bệnh nhân khạc ra đờm có màu
xanh.
–
Áp xe dưới cơ hoành
Gây
lỗ rò cơ hoành – phế quản: bơm hơi ổ bụng có thể thấy chỗ rò cơ hoành bị dính,
bơm lipiodol vào thuỳ dưới của phổi qua soi phế quản thấy thuốc xuống thấp dưới
cơ hoành.
–
Nang tụ máu
Khi
nang tụ máu do chấn thương thông với phế quản, bệnh nhân thường khạc ra đờm
không có mủ, cần hỏi kỹ về tiền sử chấn thương lồng
ngực.
–
Kén sán chó
Rất
khó phân biệt nêu X-quang chỉ thấy một hình mò giông như khối u lành tính, không
có triệu chứng lâm sàng gì đặc biệt. Khi nang sán vỡ, biểu hiện lâm sàng như
những triệu chứng dị ứng, có khi sốc phản vệ. Chẩn đoán bằng tìm thấy đầu sán
trong bệnh
phẩm.
9.3.
Chẩn đoán nguyên
nhân
–
Hỏi kỹ về tiền sử: bị sặc, dị vật, chấn thương lồng ngực, nhất là có mảnh đạn
nằm lâu trong
phổi.
–
Dựa vào tính chất của mủ: mủ thối do vi khuẩn yếm khí, mủ màu nâu chocolat do
amip.
–
Nuôi cấy trên các môi trường ái khí, yếm khí để xác định loại vi khuẩn và làm
kháng sinh
đổ.
–
Tìm amip trong
mủ.
–
Nhuộm soi trực tiếp và nuôi cấy tìm
nấm.
–
Tìm trực khuẩn lao (AFB, PCR – MTB, nuôi cấy) nhiều lần giúp loại trừ lao
phổi.
10.
ĐIỀU
TRỊ
10.1.
Điều trị nội
khoa
10.1.1.
Điều trị kháng
sinh
–
Nguyên tắc dùng kháng sinh
+
Phối hợp ít nhất 2 loại kháng sinh, theo đường tĩnh mạch hoặc tiêm
bắp.
+
Dùng liều cao ngay từ
đầu.
+
Dùng kháng sinh ngay sau khi lấy được bệnh phẩm xét nghiệm vi sinh
vật.
+
Thay đổi kháng sinh dựa theo diễn biến lâm sàng và kháng sinh đồ (nếu
có).
+
Thời gian dùng kháng sinh ít nhất 4 tuần (có thể kéo dài đến 6 tuần tuỳ theo đáp
ứng lâm sàng và X-quang
phổi).
–
Các loại kháng sinh có thể dùng
–
Penicilin G 10
– 50 triệu đơn vị tuỳ theo tình trạng nhiễm trùng và cân nặng của bệnh nhân, pha
truyền tĩnh mạch chia 3 – 4 lần/ngày, kết hợp với 1 kháng sinh nhóm
aminoglycosid:
+ Gentamycin 3-5
mg/kg/ngày tiêm bắp 1 lần
hoặc
+ Amikacin 15
mg/kg/ngày tiêm bắp 1 lần hoặc pha truyền tĩnh mạch trong 250 ml dung dịch
natriclorua
0,9%.
–
Nếu nghi vi khuẩn tiết betalactamase thì thay penicilin G bằng amoxicillin +
acid clavunalic (Augmentin) hoặc ampicillin + sulbactam (Unasyn), liều dùng 3- 6
g/ngày.
–
Nếu nghi ngờ áp xe phổi do vi khuẩn gram âm: dùng cephalosporin thế hệ 3 như
cefotaxim 3 – 6 g/ngày, ceftazidim 3 – 6 g/ngày, kết hợp với kháng sinh nhóm
aminoglycosid với liều tương tự như
trên.
–
Nếu nghi ngờ áp xe phổi do vi khuẩn yếm khí: kết hợp nhóm beta lactame + acid
clavunalic với metronidazol liều 1- l,5g/ngày, truyền tĩnh mạch chia 2-3
lần/ngày, hoặc penicillin G 10 – 50 triệu đơn vị kết hợp metronidazol
1-l,5g/ngày truyền tĩnh mạch, hoặc hoặc penicilin G 10 — 50 triệu đơn vị kết hợp
clindamycin l,8g/ngày truyền tĩnh
mạch.
–
Nếu nghi ngờ áp xe phổi do tụ cầu: oxacillin 6 – 12g/ngày hoặc vancomycin 1-2
g/ngày, kết hợp với amikacin nếu nghi do tụ cầu kháng
thuốc.
–
Nếu nghi ngờ áp xe phổi do Pseudomonas aruginosa: ceftazidim 3 – 6 g/ngày, kết
hợp với kháng sinh nhóm quinolon (ciprofloxacin lg/ngày, levoíloxacin
750mg/ngày, moxifloxacin
400mg/ngày).
–
Nếu áp xe phổi do amíp thì dùng metronidazol 1,5 g/ngày, truyền tĩnh mạch chia 3
lần/ngày kết hợp với kháng sinh
khác.
–
Chú ý xét nghiệm creatinin máu 1-2 lần/tuần đối với bệnh nhân có sử dụng thuốc
nhóm aminoglycosid cần rất thận trọng khi dùng thuốc nhóm aminoglycosid ở người
cao tuổi. Thận trọng dùng thuốc nhóm aminoglycosid ở người bị đái tháo đường vì
nguy cơ gây suy
thận.
10.1.2.
Dẫn lưu ổ áp
xe
–
Dẫn lưu tư thế, vỗ rung lồng ngực: dựa vào phim chụp X-quang phổi thẳng nghiêng
hoặc chụp cắt lớp vi tính lồng ngực chọn tư thế bệnh nhân để dẫn lưu, kết hợp
với vỗ rung lồng ngực. Dẫn lưu tư thế nhiều lần/ngày, để BN ở tư thế sao cho ổ
áp xe được dẫn lưu tốt nhất, lúc đầu trong thời gian ngắn vài phút, sau kéo dài
thời gian tùy thuộc vào khả năng chịu đựng của bệnh nhân có thể đến 15 — 20
phút/lần. vỗ rung dẫn lưu tư thế mỗi ngày 2-3
lần.
–
Có thể nội soi phế quản ống mềm để hút mủ ở phế quản giúp dẫn lưu ổ áp xe. Soi
phế quản ống mềm còn giúp phát hiện các tổn thương gây tắc nghẽn phế quản và gắp
bỏ dị vật phế quản nếu
có.
–
Chọc dẫn lưu mủ qua thành ngực: áp dụng đối với những ổ áp xe phổi ở ngoại vi, ổ
áp xe không thông với phế quản; ổ áp xe ở sát thành ngực hoặc dính với màng
phổi. Sử dụng ông thông cỡ 7- 14F, đặt vào ổ áp xe để hút dẫn lưu mủ qua hệ
thống hút liên
tục.
10.1.3.
Điều trị hỗ
trợ
–
Đảm bảo chế độ dinh dưỡng cho bệnh
nhân.
–
Đảm bảo cân bằng nưóc điện giải, thăng bằng kiềm
toan.
–
Giảm đau, hạ
sốt.
10.2.
Điều trị phẫu
thuật
Chỉ
định mổ cắt phân thuỳ phổi, thuỳ phổi hoặc cả một bên phổi tuỳ theo mức độ lan
rộng của tổn thương. Áp dụng cho những trường hợp áp xe phổi khu trú một bên
phổi với chức năng hô hấp cho phép, bao gồm những chỉ định
sau:
–
Ổ áp xe lớn, đường kính > 10
cm.
–
Áp xe phổi mạn tính: triệu chứng (sốt, ho khạc đờm mủ, có thể ho ra máu, bạch
cầu tăng) tồn tại dai dẳng. Dãn lưu mủ qua đường phế quản hoặc chọc dân lưu mủ
qua thành ngực kết hợp dùng kháng sinh không đạt kết
quả.
–
Áp xe phổi có ho ra máu tái phát,
nặng.
–
Áp xe phổi kết hợp với giãn phế quản khu trú
nặng.
–
Ung thư phổi áp xe hoá nếu khối u ở giai đoạn TNM còn phẫu thuật
được.
–
Có biến chứng rò phế quản vào khoang màng phổi điều trị nội khoa không kết
quả.
11.
TIÊN
LƯỢNG
Tiên
lượng áp xe phổi tuỳ thuộc vào các yếu tố sau
đây:
–
Kích thước, số lượng ổ áp xe, chủng vi khuẩn gây bệnh. Nói chung tiên lượng tốt,
bệnh khởi hoàn
toàn.
–
Tiên lượng xấu: bệnh xảy ra trên cơ địa suy mòn, già yếu, nghiện rượu, đái tháo
đường, chẩn đoán muộn và điều trị kháng sinh không đúng lại, không đủ
liều.
12.
PHÒNG
BỆNH
–
Vệ sinh răng miệng, tai – mũi –
họng.
–
Điều trị tốt các nhiễm khuẩn răng-hàm-mặt,
tai-mũi-họng.
–
Thận trọng khi tiến hành các thủ thuật ở các vùng này để tránh các mảnh tổ chức
rơi vào khí phế
quản.
–
Khi cho bệnh nhân ăn bằng ống thông dạ dày phải theo dõi chặt chẽ, tránh để sặc
thức ăn.
–
Phòng ngừa các dị vật rơi vào đường
thở.
1 nhận xét:
hay lắm ad
\
Đăng nhận xét