LƠ
XÊ MI CẤP
1.
ĐẠI CƯƠNG
Bình
thường các tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu được sinh ra từ tuỷ xương sinh
máu. Quá trình sinh máu là quá trình sinh sản kèm biệt hoá và trưởng thành tế
bào để từ một tế bào gốc thuỷ tổ ban đầu hình thành các tế bào có cấu trúc và
chức năng khác nhau. Quá trình này xẩy ra ở tuỷ sinh máu qua nhiều giai đoạn,
ban đầu là sự biệt hoá từ tế bào gốc chung thành các tế bào định hướng dòng tuỷ
hay lympho, sau đó các tế bào này biệt hoá tiếp thành các tế bào đầu đòng, rồi
các tế bào đầu dòng trưởng thành gọi là “chín” thành tế bào hoạt động chức năng.
Vì một lý do nào đó quá trình này bị rối loạn, tế bào sinh sản mà không biệt hoá
hay trưởng thành được gây ra hậu quả là tăng tế bào non và thiếu tế bào trưởng
thành đó là lơ xê mi
cấp.
Do
các tế bào tạo máu tăng sinh nhưng hoàn toàn không biệt hoá hay trưởng thành
được, dẫn đến thiếu các tế bào máu có chức năng, gây ra các hậu quả lâm sàng
tương ứng. Bệnh tiến triển nhanh, rầm rộ, “cấp
tính”.
Các
tế bào non tăng cao tràn vào máu và thâm nhiễm vào tổ chức đặc biệt tổ chức liên
võng. Từ “lơ xê mi” (leucémie) hay leukemia được Virchow đưa ra năm 1847 có
nghĩa là “máu trắng” để chỉ tình trạng bệnh do bạch cầu tăng quá cao làm máu có
màu
“trắng”.
1.1.
Tỷ lệ mắc
bệnh
Bệnh
gặp ở mọi lứa tuổi, thường nhất là trẻ em và người lớn tuổi. Theo các nghiên cứu
thì tỷ lệ mắc bệnh hàng năm là khoảng 4 - 6 trường hợp/100000 dân. Ở Việt Nam,
năm 1986 nghiên cứu của Viện Huyết học - Truyền máu cho thấy khoảng 3-4 trường
hợp/100000 dân. Có thể do nhiều bệnh nhân ở các vùng xa chưa được phát hiện.
Theo thống kê tại bệnh viện thì lơ xê mi cấp là bệnh đứng hàng đầu trong số các
bệnh về máu. Cũng theo số liệu tại Viện Huyết học - Truyền máu, từ 1997 - 1999
lơ xê mi cấp chiếm 38,5% các bệnh
máu.
Nam
và nữ đều có thể mắc
bệnh.
1.2.
Nguyên nhân và cơ chế sinh
bệnh
Qua
nhiều nghiên cứu cho thấy một số yếu tố liên quan tới phát sinh
bệnh;
-
Tia xạ: người ta thấy tỷ lệ mắc bệnh lơ xê mi cao ở các thành phố Hiroshima và
Nagasaki sau vụ nổ bom nguyên tử. Những người tiếp xúc nhiều với tia ion hoá hay
bị tai nạn tia xạ thường có nguy cơ cao bị lơ xê mi
cấp.
-
Hoá chất: những người nhiễm mạn tính benzen hay sử dụng hoá chất để chữa bệnh ác
tính dễ mắc bệnh lơ xê mi
cấp.
-
Virus: người ta đã thấy mối liên quan giữa nhiễm một số virus với lơ xê mi ở
động vật thực
nghiệm.
-
Yếu tố di truyền: một số trường hợp bệnh có tính gia đình, trẻ sinh đôi cùng trẻ
lơ xê mi có nguy cơ mắc bệnh tới 20%. Những bệnh nhân bị một số bệnh di truyền
như hội chứng Down, hội chứng Bloom, thiếu máu Fanconi có nguy cơ cao bị lơ xê
mi cấp.
Về
cơ chế sinh bệnh đến nay người ta cho rằng quá trình sinh sản và biệt hoá,
trưởng thành tế bào được điều hoà như sau: (1) yếu tố kích thích tác động lên
màng tế bào; (2) truyền thông tin kích thích qua màng tế bào và bào tương đến
nhân tế bào; (3) tác động của thông tin về yếu tố kích thích lên gen chịu trách
nhiệm sinh sản hay biệt hoá tế bào. Các yếu tố kích thích hay các chất tham gia
vào truyền tin và các chất phối hợp tác động của thông tin kích thích lên gen
đều là các protein. Các protein này đều do tế bào sản xuất dựa trên khuôn mẫu là
trình tự các nucleotid trên các gen tương ứng. Các nguyên nhân sinh bệnh (hoá
chất, tia xạ, vius) tác động làm tổn thương gen dẫn đến tạo ra các protein có
cấu tạo và chức năng khác, hay protein có hoạt tính quá mạnh làm tế bào phân
chia quá nhanh hoặc không biệt hoá, trưởng thành được dẫn tới mắc
bệnh.
2.
TRIỆU CHỨNG LÂM
SÀNG
Biểu
hiện lâm sàng của bệnh là hậu quả của quá trình sản sinh quá nhiều tế bào “non”,
ác tính, thiếu các tế bào máu bình thường. Bệnh có nhiều thể, mỗi thể có thể có
những đặc điểm riêng, nhưng chung nhất là các biểu hiện lâm sàng diễn biến
nhanh:
-
Triệu chứng toàn thân: mệt mỏi chán ăn, gầy
sút.
-
Hội chứng thiếu máu: mức độ thiếu máu tuỳ từng bệnh nhân nhưng thường là thiếu
máu nặng và rất nặng, các biểu hiện cơ năng và thực thể của thiếu máu đến khá
nhanh: mệt mỏi, khó thở, chán ăn, đôi khi có ngất xỉu nhất là lúc thay đổi tư
thế như đang ngồi đứng
dậy.
-
Hội chứng xuất huyết: biểu hiện xuất huyết do giảm tiểu cầu cụ thể là xuất huyết
dưới da đa dạng, xuất huyết niêm mạc như chảy máu chân răng, máu mũi, đái máu.
Một số thể bệnh đặc biệt như lơ xê mi cấp tiền tuỷ bào (M3 theo phân loại FAB)
thì chảy máu là biểu hiện nổi bật với các hình thái xuất huyết nặng như xuất
huyết dưới da thành đám lớn, xuất huyết các màng, các
tạng...
-
Hội chứng nhiễm trùng: do thiếu bạch cầu trưởng thành có chức năng nên bệnh nhân
thường bị nhiễm trùng, biểu hiện sốt, có các dấu hiệu nhiễm trùng tại chỗ như
viêm nhiễm đường hô hấp, tiết niệu, trường hợp nặng có thể nhiễm trùng
huyết.
-
Hội chứng loét, hoại tử: bệnh nhân thường loét miệng, họng, hoại tử tổ chức tạo
mùi hôi đặc
biệt.
-
Hội chứng thâm nhiễm: bệnh nhân có thể có hạch, lách to, gan to, có u da, phì
đại lợi. Một số thể bệnh có thâm nhiễm thần kinh trung ương nên bệnh nhân có thể
đau đầu rất
nhiều.
3.
TRIỆU CHỨNG CẬN LÂM
SÀNG
Biểu
hiện nổi bật là các dấu hiệu huyết
học:
-
Xét nghiệm tế bào máu ngoại
vi
+
Số lượng hồng cầu thường giảm, huyết sắc tố giảm, thiếu máu bình
sắc.
+
Giảm số lượng tiểu
cầu.
+
Số lượng bạch cầu tăng, cũng có thể bình thường hoặc
giảm.
+
Phân loại bạch cầu (công thức bạch cầu) cho thấy có nhiều tế bào non, ác tính và
đặc biệt là giảm các tế bào máu trưởng thành bình
thường.
-
Xét nghiệm tuỷ
xương:
Tuỷ
đồ:
+
Thường tăng cao số lượng tế bào tuỷ xương (tuỷ tăng sinh)
.
+
Tăng 1 loại tế bào ác tính. Tỷ lệ tế bào ác tính là trên 30% trong tuỷ
xương.
+
Giảm các tế bào tuỷ bình thường: Bình thường ở tuỷ sinh máu tỷ lệ các dòng tế
bào tương đối ổn định, nhiều nhất là tế bào dòng bạch cầu hạt mà chủ yếu là bạch
cầu hạt trung tính, tiếp đến là nguyên hồng cầu và tế bào lympho. Trong mỗi dòng
thì tế bào càng trưởng thành chiếm tỷ lệ càng cao. Trong lơ xê mi cấp do bệnh ở
một dòng cho nên các tế bào dòng khác giảm, bệnh tích tụ các tế bào non, các tế
bào trưởng thành
giảm.
+
Số lượng hồng cầu lưới ở máu và tuỷ
giảm.
Sinh
thiết tuỷ:
Xét
nghiệm quan sát cấu trúc tuỷ sinh máu cho thấy các khoang sinh máu có nhiều tế
bào ác tính, có thể có tình trạng xơ. Xét nghiệm sinh thiết tuỷ được chỉ định
khi xét nghiệm tuỷ đồ chưa cho phép chẩn đoán khẳng
định.
Xét
nghiệm hoá tế
bào:
Sử
dụng hoá chất nhuộm một số men và một số chất trong tế bào, qua đó xác định được
bản chất tế bào lơ xê mi thuộc dòng nào. Phương pháp này được sử dụng để phân
loại lơ xê mi cấp. Hiện nay ba phương pháp nhuộm chính được sử dụng
là:
+
Nhuộm PAS (periodic acid Schif): nhuộm các hạt glycogen có mặt trong các tế bào
thuộc dòng lympho. Phản ứng dương tính mạnh (tạo nên các hạt bắt màu) ở tế bào
lympho. Phản ứng dương tính yếu ở các tế bào nguyên hồng
cầu.
+
Nhuộm peroxydase (myeloperoxydase): dương tính với các tế bào dòng
tuỷ.
+
Nhuộm su dan đen: dương tính với các tế bào dòng tuỷ, phản ứng mạnh hơn so với
peroxydase.
+
Nhuộm esterase: nhuộm esterase không đặc hiệu cho phản ứng dương tính với các tế
bào dòng tuỷ nhưng mạnh hơn với tế bào mong, nhuộm esterase đặc hiệu (ức chế
bằng natri fluorure) cho kết quả âm tính (không phản ứng) với tế bào dòng mono
nhưng vẫn cho phản ứng với tế bào dòng hạt. Đây là xét nghiệm quan trọng để phân
biệt tế bào lơ xê mi cấp là “mono” hay
“hạt”
-
Xét nghiệm miễn dịch và di
truyền
+
Bằng kỹ thuật miễn dịch phát hiện các kháng nguyên (CD: cluster of
differentiation) trên màng các tế bào lơ xê mi và đối chiếu với sự xuất hiện các
CD này trong quá trình biệt hoá và trưởng thành tế bào máu bình thường để biết
bản chất dòng và giai đoạn biệt hoá của tế bào lơ xê mi. Xét nghiệm này giúp
phân loại bệnh lơ xê mi
cấp.
+
Xét nghiệm tế bào di truyền: phát hiện các bất thường nhiễm sắc thể đặc trưng
trong lơ xê mi cấp là t(8;21) ở M2, t(15;17) ở M3, NST Phí ở lơ xê mi cấp dòng
lympho.
+
Xét nghiệm phát hiện các bất thường đến bằng kỹ thuật sinh hoặc phân tử: Một số
bất thường gen đặc trưng trong một số thể bệnh như gen lai AMUETO ở M2; gen lai
PML/RARµ ở M3 (theo phân loại
FAB).
-
Xét nghiệm
khác
+
Xét nghiệm máu lắng tốc độ tăng
cao,
+
Xét nghiệm đông máu: các biểu hiện do giảm tiểu cầu như thời gian máu chảy kéo
dài, cục máu không co. Một số thể bệnh như M3 thường có biểu hiện tình trạng
đông máu rải rác trong lòng mạch như PT (thời gian prothrombin), APTT kéo dài,
nghiệm pháp rượu dương tính, D dimer tăng
cao.
4.
CHẨN ĐOÁN
4.1.
Chẩn đoán xác
định
Căn
cứ vào các biểu hiện lâm sàng và xét
nghiệm
-
Lâm sàng:
+
Biểu hiện mệt mỏi, gầy
sút.
+
Bệnh nhân có biểu hiện các hội chứng: thiếu máu, nhiễm trùng, xuất huyết. Các
biểu hiện này diễn biến
nhanh.
+
Biểu hiện hội chứng thâm nhiễm, loét, hoại
tử.
Cận
lâm sàng
-
Xét nghiệm
máu:
+
Số lượng hồng cầu thường giảm, thiếu máu bình
sắc.
+
Số lượng tiểu cầu
giảm.
+
Số lượng bạch cầu tăng, cũng có thể bình thường hoặc giảm. trong công thức bạch
cầu có nhiều tế bào non, ác tính và đặc biệt là giảm các tế bào máu trưởng thành
bình
thường.
-
Xét nghiệm tuỷ
xương:
+
Số lượng tế bào tuỷ xương tăng hoặc bình
thường.
+
Có tế bào non ác tính. Tiêu chuẩn chẩn đoán là tỷ lệ tế bào ác tính trên 30% các
tế bào có nhân không thuộc dòng hồng cầu trong tuỷ xương hoặc/ và trong
máu.
+
Giảm các tế bào tuỷ bình
thường.
+
Số lượng hồng cầu lưới ở máu và tủy
giảm.
-
Xét nghiệm miễn dịch và di
truyền
+
Phát hiện nhiều tế bào có kháng nguyên (CD) đặc trưng giai đoạn sớm trong quá
trình biệt hoá và trưởng
thành.
+
Xét nghiệm di truyền: phát hiện các bất thường nhiễm sắc thể và gen đặc trưng
trong lơ xê mi
cấp.
4.2.
Chẩn đoán phân
biệt
4.2.1.
Phân biệt với các bệnh máu
khác
-
Suy tuỷ xương: Bệnh nhân cũng có thiếu máu, xuất huyết, nhiễm
trùng.
Phân
biệt nhờ diễn biến thường từ từ, bệnh nhân có tình trạng thích nghi với thiếu
máu nên biểu hiện lâm sàng không rầm rộ. Gan, lách, hạch không to. Xét nghiệm
thấy giảm 3 dòng tế bào máu nhưng không có tế bào non, ác tính trong máu và tuỷ,
tuỷ nghèo tế
bào.
-Xuất
huyết giảm tiểu cầu: Có tình trạng xuất huyết như lơ xê mi cấp, có thể thiếu
máu. Nhưng thiếu máu là do xuất huyết nên mức độ thiếu máu tương ứng với mức độ
mất máu. Xét nghiệm máu không có tế bào non ác tính, tuỷ có thế cũng tăng sinh
nhưng không tích tụ nhiều tế bào non ác
tính.
-
Thiếu máu do các nguyên nhân khác: Biểu hiện thiếu máu nhưng không xuất huyết,
không nhiễm trùng, xét nghiệm không có tế bào non ác tính trong máu và tuỷ
xương. Trong thiếu máu tan máu có thể gặp một số tế bào non dòng hồng cầu ra máu
nhưng không ác tính và các tế bào trưởng thành dòng bạch cầu không bị
giảm.
-
Bệnh lơ xê mi kinh dòng hạt và các bệnh khác thuộc hội chứng tăng sinh tuỷ mạn
tính: bệnh nhân có thể thiếu máu, lách to. Tuy nhiên bệnh thường diễn biến từ
từ, ít khi có xuất huyết và nhiễm trùng, có thể có đau cơ, đau vùng lách. Xét
nghiệm thấy số lượng bạch cẩu tăng rất cao, tiểu cầu thường tăng cao, có nhiều
bạch cầu ở các lứa tuổi khác nhau trong máu, tỷ lệ tế bào đầu dòng (nguyên tuỷ
bào và tiền tuỷ bào nhỏ hơn
30%).
-
Bệnh u lympho: bệnh nhân cũng có thể thiếu máu, hạch to, đôi khi có xuất huyết.
Nhưng biểu hiện hạch to hoặc có u là chủ yếu, xét nghiệm máu và tuỷ không có tế
bào non ác
tính.
-
Bệnh đa u tuỷ xương: bệnh nhân thiếu máu, có thể xuất huyết, nhiễm trùng. Tuy
nhiên xét nghiệm sinh hoá máu cho thấy tăng cao protein, đặc biệt tăng một loại
gamma globulin, xét nghiệm tế bào máu và tuỷ không có tế bào non ác
tính.
-
Hội chứng rối loạn sinh tuỷ: là hội chứng có nhiều thể bệnh, trong đó có thể
biểu hiện gần như lơ xê mi cấp. Bệnh nhân cũng có thể thiếu máu, xuất huyết và
nhiễm trùng, xét nghiệm máu và tuỷ có thể gặp tế bào non. Tuy nhiên bệnh thường
diễn biến từ từ, tỷ lệ tế bào non trong máu và tuỷ dưới
30%.
-
Bệnh lơ xê mi kinh dòng hạt chuyển cấp: đây là giai đoạn cuối của lơ xê mi kinh.
Bệnh nhân bị lơ xê mi cấp nhưng có tiền sử diễn biến lơ xê mi kinh, xét nghiệm
có nhiễm sắc thể Ph
1.
4.2.2.
Phân biệt với bệnh
khác
-
Nhiễm trùng phản ứng giả lơ xê mi: trong một số tình trạng nhiễm trùng cơ thể
phản ứng tăng bạch cầu và có thể gặp một số tế bào chưa trưởng thành ra máu.
Nhưng không thiếu máu, xuất huyết, tế bào không ác tính. Sau điều trị hết nhiễm
trùng bệnh nhân hết phản
ứng.
5.
PHÂN LOẠI
Căn
cứ vào bản chất dòng (tế bào dòng tuỷ hay lympho, hạt hay mono) và giai đoạn
trong quá trình biệt hoá của tế bào lơ xê mi (tế bào đã biệt hoá nhiều hay ít),
người ta chia ra các thể bệnh khác nhau. Có nhiều cách phân loại, tuy nhiên cách
nào cũng phân thành hai nhóm chính là lơ xê mi tuỷ cấp (lơ xê mi cấp dòng tuỷ)
và lơ xê mi lympho cấp (lơ xê mi cấp dòng lympho), trong mỗi nhóm có nhiều thể
bệnh khác
nhau.
-
Phân loại theo FAB: năm 1976 các nhà huyết học của Pháp, Mỹ và Anh đã họp và đưa
ra cách phân loại lấy tên là FAB (France, American, Britain). Từ đó đã có nhiều
bổ sung, hiện nay Việt Nam và nhiều nơi còn áp dụng xếp loại FAB bổ sung 1982 cụ
thể như
sau:
Chia
lơ xê mi cấp thành hai nhóm chính là lơ xê mi tuỷ cấp và lơ xê mi lympho cấp. Lơ
xê mi tuỷ cấp gồm 8 thể
sau:
-
Thể M0: Lơ xê mi tuỷ cấp, biệt hoá tối thiểu: tế bào lơ xê mi là những tế bào
rất non, chỉ một tỷ lệ nhỏ (< 3%) mang đặc trưng dòng tuỷ (phản ứng dương
tính khi nhuộm
myeloperoxydase)
-
Thể M1: Lơ xê mi cấp nguyên tuỷ bào chưa trưởng thành: tế bào lơ xê mi là những
tế bào non, đã định hướng dòng tuỷ, tỷ lệ dương tính khi nhuộm myeloperoxydase
từ 3-10%.
-
Thể M2: Lơ xê mi cấp nguyên tuỷ bào trưởng
thành.
-
Thể M3: Lơ xê mi cấp tiền tuỷ bào tăng hạt đặc
hiệu.
-
Thể M4: Lơ xê mi cấp tuỷ
-mono
-
Thể M5: Lơ xê ri cấp dòng
mono
-
Thể M6: Lơ xê mi cấp hồng bạch
cầu
-
Thể M7: Lơ xê mi cấp nguyên mẫu tiểu
cầu
Trong
thể M3 có thể không điển hình là M3V (M3 variant), trong thể này các hạt trong
nguyên sinh chất nhỏ,
mịn.
Trong
thể M4 có thể M4EO là thể có tăng cao tỷ lệ bạch cầu đoạn ưa
acid
Trong
thể M5 người ta chia ra là M5a: lơ xê mi cấp nguyên bào mono chưa trưởng thành
và M5b là lơ xê mi cấp dòng mono với các tế bào đã biệt hoá, trưởng
thành
Lơ
xê mi lympho cấp được chia thành 3 thể dựa vào hình thái tế bào lơ xê
mi:
Thể
L1: các tế bào lơ xê mi có kích thước nhỏ và đồng
đều.
Thể
L2: các tế bào lơ xê mi có kích thước to và không đồng
đều.
Thể
L3: các tế bào lơ xê mi có kích thước to, và có nhiều hốc trong nguyên sinh
chất.
-
Phân loại miễn dịch: Phát hiện các dấu ấn (CD) trên màng tế bào lơ xê mi để phân
loại. Phân loại miễn dịch có giá trị với lơ xê mi lympho cấp. Dựa vào sự có mặt
của CD19, CD10 hay CD3, CD7 để phân ra lơ xê mi lympho B hay lympho T. Sau đó
chia ra các thể theo mức độ trưởng thành của tế
bào.
6.
ĐIỀU
TRỊ
6.1.
Nguyên tắc điều
trị
Nguyên
tắc điều trị là tiêu diệt tế bào ác tính, để các tế bào bình thường tiếp tục
biệt hoá và trưởng thành. Thông thường hiện nay dùng một số hoá chất tiêu diệt
tế bào. Để điều trị bệnh và giảm các tác hại hoá chất, người ta điều trị thành
nhiều giai đoạn, đầu tiên là điều trị tấn công, sau đó là điều trị củng cố để có
được lui bệnh hoàn toàn và tiếp đến điều trị duy trì để kéo dài tình trạng lui
bệnh của người
bệnh.
6.2.
Điều trị cụ
thể
6.2.1.
Điều trị tấn
công
-
Lơ xê mi tuỷ
cấp
Có
nhiều phác đồ, sử dụng phổ biến hiện nay là phác đồ 3 + 7. Phác đồ này là dùng
một kháng sinh loại anthracyclin (daunorubixin hay doxorubixin) phối hợp với
cytosin arabinosid (ARA-C). Cụ thể phác đồ này như
sau:
TT
Tên
thuốc
Liều,
đường dùng
Ngày
dùng
1
Daunorubixin
40
mg/m2 da,
TM
1,
2, 3
2
(ARA-C)
100-200mg/m2
da, TM
1-7
Đối
với lơ xê mi cấp thể M3 là thể mà tế bào lơ xê mi bị dừng lại ở giai đoạn tiền
tuỷ bào thì nên sử dụng phác đồ có acid An trans retinoic (ATRA)
.
-
Lơ xê mi lympho
cấp:
Rất
nhiều phác đồ, hiện nay có thể dùng phác đồ phối hợp gồm một loại anthracyclin
với vincristin, prednisolon và cyclophosphamid. Cụ thể như
sau:
TT
Tên
thuốc
Liều,
đường dùng
Ngày
dùng
1
Daunorubixin
40
mg/m2 da,
TM
1,
8, 15, 22
2
Vincristin
1,4
mg/m2 da,
TM
1,
8, 15, 22
3
Prednisolon
40
mg/m2 da,
Uống
Hàng
ngày
4
Cyclophosphamid
400
mg/m2 da,
TM
1-7
6.2.2.
Điều trị củng cố hay tái tấn
công
Sử
dụng cho những trường hợp sau một tháng kết thúc điều trị tấn công đạt lui bệnh
hoàn toàn hay tái phát. Thường dùng phác đồ tương tự điều trị tấn công hay diệt
tế bào mạnh hơn. Với trường hợp lơ xê mi tuỷ cấp đã điều trị tấn công bằng phác
đồ 3+7 thì có thể dùng phác đồ 3+5+7 (tương tự phác đồ 3+7 nhưng thêm 5 ngày
dùng Epotoside) . Phác đồ thêm thuốc diệt tế bào này cũng có thể sử dụng cho
những trường hợp điều trị tấn công không đạt hiệu quả lui bệnh hoàn
toàn.
6.
2. 3. Điều trị duy
trì
Điều
trị lâu đài bằng cách dùng đều đặn hàng tháng với các hoá chất liều nhẹ (khoảng
1/2 liều tấn công), hoặc dùng một loại thuốc như ARA-C hay
6MP...
6.2.4.
Điều trị hỗ trợ: đây là vấn đề rất quan trọng, bệnh nhân cần được chăm sóc tốt
trong điều kiện càng sạch (vô trùng) càng tốt, cần được truyền máu và chế phẩm
máu, sử dụng kháng sinh phổ rộng khi có dấu hiệu nhiễm
trùng.
Trong
quá trình điều trị tấn công, tái tấn công sẽ có giai đoạn số lượng bạch cầu và
tiểu cầu xuống rất thấp, với lơ xê mi tuỷ cấp tình trạng này thường xảy ra vào
ngày thứ 9 đến ngày 14 của đợt điều trị. Lúc đó cần theo dõi nếu có biểu hiện
nhiễm trùng cần dùng kháng sinh phổ rộng, hay theo kháng sinh đồ. Nếu số lượng
tiểu cầu thấp hơn 20 G/l cần truyền khối tiểu cầu, tốt nhất dùng tiểu cầu tách
từ một người cho (khối tiểu cầu apheresis). Có thể dùng yếu tố kích thích sinh
bạch cầu hạt (G-CSF) khi bạch cầu đoạn trung tính nhỏ hơn
0,5G/l.
6.2.5.
Ghép tuỷ
xương
Có
thể sử dụng phương pháp ghép tuỷ tự thân hay đồng loại sau khi dùng hoá chất
mạnh tiêu diệt tế bào ác tính ở tuỷ
xương.
6.2.6.
Điều trị tình trạng thâm nhiễm thần kinh trung
ương
Một
số trường hợp nhất là lơ xê mi lympho cấp có hiện tượng các tế bào ác tính xâm
nhập thần kinh trung ương, bệnh nhân thường đau đầu rất nhiều, xét nghiệm dịch
não tuỷ có thể thấy nhiều bạch cầu non. Có thể tiêm tuỷ sống thuốc diệt tế bào:
thường dùng methotrexate kết hợp cytosa và
predniolon.
7.
TIẾN TRIỂN, TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN
CHỨNG
7.1.
Tiến triển
-
Nếu không được điều trị đúng theo phác đồ bệnh diễn biến ngày càng nặng, các
triệu chứng nhiễm trùng, thiếu máu, xuất huyết có thể giảm tạm thời do sử dụng
kháng sinh và chế phẩm máu, nhưng nhanh chóng tái phát và bệnh nhân tử vong do
nhiễm trùng, hay xuất
huyết.
-
Nếu được điều trị đúng phác đồ có thể có các tình huống: (1) Lui bệnh hoàn toàn,
bệnh nhân có tình trạng sức khoẻ trở lại gần bình thường, hết các triệu chứng
lâm sàng, xét nghiệm không có bạch cầu non trong máu, nồng độ huyết sắc tố hơn
100g/l, số lượng tiểu cầu trên 100G/l không phải do truyền máu. Xét nghiệm tuỷ
đồ có số lượng tế bào tuỷ bình thường, trong tuỷ tỷ lệ tế bào non dưới 5%. Tuỳ
từng trường hợp cụ thể nếu được điều trị củng cố và duy trì tốt có thể kéo dài
tình trạng lui bệnh hoàn toàn hàng năm, tuy nhiên nhiều trường hợp tái phát
nhanh. Khi tái phát điều trị vẫn có thể đạt lui bệnh hoàn toàn nhưng sau đó sẽ
sớm tái phát hơn. (2) Điều trị không kết quả, bệnh diễn biến ngày càng nặng và
tử vong.
7.2.
Tiên lượng
Tiên
lượng phụ thuộc vào thể bệnh, tuổi mắc bệnh, và một số dấu hiệu sinh học như bất
thường nhiễm sắc thể, biến đổi đen, số lượng bạch
cầu.
-
Những dấu hiệu tiên lượng tốt (tỷ lệ đạt lui bệnh hoàn toàn cao, lâu tái phát và
thời gian sống thêm sau mắc bệnh
dài):
+
Với trẻ em từ trên 1 đến 10 tuổi, lơ xê mi lympho cấp, số lượng bạch cầu không
cao.
+
Với người lớn các dấu hiệu báo hiệu tiên lượng tốt là: đối với lơ xê mi tuỷ cấp
có bất thường NST t(8;21) hay bất thường gen AML/ETO; inv (16); t(15;17); với lơ
xê mi lympho cấp thì các bệnh nhân có bộ NST tế bào tuỷ xương trên 50
NST.
Những
dấu hiệu tiên lượng xấu: bệnh nhân lớn tuổi số lượng bạch cầu cao, có nhiều bất
thường NST phối hợp, bất thường dạng NST
Ph1.
7.3.
Biến chứng
-
Nhiễm trùng: thường bệnh nhân nhiễm trùng nhất là trường hợp không được điều trị
hoặc giai đoạn điều trị tấn công. Các nhiễm trùng thường gặp là viêm phổi, nhiễm
trùng
huyết.
-
Xuất huyết: có thể xuất huyết nặng như xuất huyết não, màng
não.
-
Thiếu máu: là một triệu chứng, thường rất nặng nhưng cơ bản đã được giải quyết
bằng truyền
máu.
Các
biến chứng do tác động của thuốc hoá chất: viêm gan, độc cơ tim, rối loạn tiêu
hoá, rụng
tóc.
TS.
Phạm Quang
Vinh
0 nhận xét:
Đăng nhận xét